Giới thiệu về cây mè
Giới thiệu về cây mè
Cây vừng (hay còn gọi là cây mè) tên khoa học là Sesamum indicum L. Loại cây này thường được trồng chủ yếu để lấy hạt, phổ biến ở các khu vực nhiệt đới châu Á và châu Phi, Nam Mỹ. Hạt vừng có thể dùng để ép dầu.
Hạt vừng kích thước rất nhỏ, nhưng lại rất giàu protein, vitamin, khoáng chất và các chất chống oxy hóa. Hạt vừng thường được dùng trong thực phẩm, mỹ phẩm và cả dược phẩm. <xem thêm>
Nguồn gốc xuất xứ và phân bố
Nguồn gốc có từ Châu Phi. Có nhiều ý kiến cho rằng Êtiopi là nguyên sản của giống mè trồng hiện nay. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng vùng Afghan – Persian mới là nguyên sản của các giống mè trồng. Mè là loại cây có dầu được trồng lâu đời (khoảng 2000 năm trước công nguyên). Sau đó được đưa vào vùng tiểu Á (Babylon) và được di về phía tây – vào châu Âu và phía nam vào châu Á dần dần được phân bố đến Ấn Độ và một số nước nam Á Trung Quốc. Ấn Độ được xem như là trung tâm phân bố của cây mè.
Ở Nam Mỹ, mè được du nhập qua từ Châu Phi sau khi người Âu Châu khám phá ra ở Châu Mỹ vào năm 1492 (do Chritophecoloms người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) đem mè đi bán. <xem thêm>
Giá trị dinh dưỡng và công dụng
-
Giá trị dinh dưỡng
Mè có giá trị dinh dưỡng cao, trong hạt mè có chứa: 45 – 55% dầu, 19 – 20% Protein, 8 – 11% đường, 5% nước, 4 – 6% chất tro. Thành phần axit hữu cơ chủ yếu của dầu mè là 2 loại acid béo chưa no sau:
Axit oleic (C18 H34 O2): 45,3 – 49,4%.
Axit linoleic (C18 H32 O2): 37,7- 41,2%.
Nếu so sánh hàm lượng acid amin có trong bột mè và trong thịt, ta thấy các acid amin có trong bột mè gần tương đương với acid amin có trong thịt.
Sau đây là bảng phân tích thành phần dinh dưỡng có trong bột mè và trong thịt. <xem thêm>
Acid amin | Bột mè % | Thịt % |
Lysin | 2,8 | 10,0 |
Triptophan | 1,8 | 1,4 |
Methionine | 3,2 | 3,2 |
Phenilatanine | 8,0 | 5,0 |
Leucine | 7,5 | 8,0 |
Isoleucine | 4,8 | 6,0 |
Valine | 5,1 | 5,5 |
Threonine | 4,0 | 5,0 |
-
Công dụng
Hạt mè
Được sử dụng rất phổ biến để chế biến nhiều dạng thức ăn (kẹo mè, chè mè…). Trong dân gian, còn dùng mè để nấu cháo (nếp với mè) cho người mẹ cho con bú rất tốt. <xem thêm>
Dầu mè
Tiêu thụ nhiều nhất, dầu mè rất tốt, khác với các loại dầu khác là không bị oxy hóa nên nên không chuyển thành mùi khó chịu. Vì trong mè có chứa chất sesamol, ngăn cản quá trình oxy-hóa.
Trong kỹ nghệ, dầu mè sử dụng để bôi trơn máy móc cao cấp: máy bay, máy dùng trong khoa học kỹ thuật, dầu dùng để pha sơn, pha vecni rất tốt vì có màu láng bóng.
Trong y học, dùng để làm thuốc viên con nhộng. Dầu mè còn dùng trong mỹ phẩm, ở Ấn Độ, người ta còn dùng dầu mè để bôi vào tóc cho bóng mượt. <xem thêm>
Tiềm năng thị trường, tình hình sản xuất và tiêu thụ
Tiềm năng thị trường
Nhiều nông dân cho biết, luân canh cây mè trên nền đất lúa mang lại lợi nhuận cao gấp 3 lần trồng lúa, bình quân 1ha mè lãi từ 45 – 48 triệu đồng.
Anh Nguyễn Văn Le ngụ xã Phong Hòa, huyện Lai Vung cho biết: “Mấy năm trước trồng khoai lang tím Nhật gia đình có khi lỗ từ vài chục đến cả trăm triệu đồng. Năm nay được một số anh em tư vấn, tôi mạnh dạn chuyển sang trồng mè. So với khoai lang, lúa thì mè nhẹ chi phí đầu tư nhưng năng suất rất cao, trung bình mỗi công (1.300m2) năng suất đạt từ 190 – 200kg, với giá bán 40 ngàn/kg như vụ vừa rồi thì 3 công mè, gia đình tôi có lãi trên 20 triệu đồng, cao hơn nhiều so với trồng lúa”.<xem thêm>
Tại thôn Vinh Quang Thượng, xã Gio Quang, huyện Gio LinhMè trắng là mặt hàng được thị trường ưa chuộng nên đầu ra khá thuận lợi. “Với 2 sào mè trắng đã thu về cho gia đình tôi gần 2,5 triệu đồng. Đây là cây màu mang lại giá trị kinh tế cao nhất trong các loại cây màu mà tôi trồng trên vườn đất cát trong vụ Hè Thu năm nay.<xem thêm>
Tình hình sản xuất và tiêu thụ mè ở Việt Nam
Ở nước ta mè được trồng nhiều ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. Miền Đông Nam Bộ và Trung Bộ (riêng tỉnh An Giang, diện tích trồng mè hiện nay tăng lên đến 16.000 ha). Tại vùng Châu Phú An Giang, năng suất đạt từ 400 – 600 kg/ha. Nếu áp dụng biện pháp canh tác thích hợp, năng suất mè có thể đạt 1 tấn/ha. Ở Việt Nam, mè được trồng lâu đời nhất là ở Miền Bắc, nhưng diện tích không mở rộng được vì điều kiện khí hậu và đất đai không thích hợp cho cây trồng phát triển.
Hiện nay, diện tích mè không mở rộng được do tình hình xuất khẩu không ổn định và giá cả biến động so với các loại cây trồng khác. <xem thêm>
Tình hình sản xuất và tiêu thụ mè trên thế giới
Trước thế chiến thứ hai, diện tích trồng mè từ 5 triệu ha vào năm 1939, đạt sản lượng 1,5 tấn trong đó Ấn Độ là quốc gia trồng nhiều nhất với diện tích 2,5 triệu ha, kế đó là Trung Quốc 1,2 triệu ha, Miến Điện 700.000 ha, Soudan 400.000 ha, Mehico 200.000 ha. Các quốc gia có diện tích trồng < 50.000 ha gồm: Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ouganda, Megéria.
Hiện nay, tuy với diện tích không nhiều mè đã được trồng khắp các châu lục trên thế giới. <xem thêm>
Sản lượng mè hằng năm trên thế giới khoảng 2 triệu tấn.
Các vùng trồng chính:
Châu Á : Sản xuất 55 – 60% sản lượng trên thế giới
Châu Mỹ: 18 – 20%
Châu Phi: 18 – 20%
Ngoài ra, Châu Âu và Châu Đại Dương cũng có trồng rãi rác nhưng không đáng kể.
Các nước trồng nhiều mè trên thế giới:
Ấn Độ: Đứng đầu thế giới với sản lượng khoảng 4000.000 tấn/năm
Trung Quốc nước sản xuất lớn thứ 2: 320.000 – 350.000 tấn.
Sudan (Châu Phi): 150 – 200 ngàn tấn.
Mexico (Châu Mỹ): 150 – 180 ngàn tấn.
Các nước có sản lượng tương đối lớn khác là: Burma, Pakistan, Thailan (châu Á); Nigiêria, Tanazania, Uganda (Châu Phi); Colombia, Venezuela (Châu Mỹ).
Năng suất mè nói chung còn thấp. Năng suất bình quân thế giới chỉ khoảng 300 – 400 kg/ha. <xem thêm>
Đặc điểm sinh học và kỹ thuật trồng cây mè
Đặc điểm sinh trưởng và phát triển chung
-
Đặc điểm thực vật học
Thân cây mè (vừng):
Thân vừng thuộc thân thảo, thân thường có hình 4 cạnh. ở gân ngọn,hình dạng thân nhiều khi không rõ rệt.
Thân vừng cao khoảng 60-10cm.trong điều kiện hạn,thân có thể thấp hơn.cành mọc từ thân.vừng thường chỉ cò một cấp cành.
Sồ lượng cành /thân phụ thuộc chủ yếu vào giống,thường có khoảng 2-6 cành.cành moc từ các nách lá ở dưới,gần gốc .
Trên thân có thể có lông hoac không có lông. Đây cũng là 1 đặc điểm để phân biệt giống.
Mầu sắc thăn có thể thay đổi từ xanh nhạt đến tím đỏ ,phần lớn các giống có màu xanh tối.
Chiều cao thân ảnh hưởng chủ yếu bởi giống, yếu tố khí hậu quang trọng nhất ảnh hưởng tới chiều cao thân là nhiệt độ, sau là ảnh hưởng của độ dài ngày. <xem thêm>
Lá cây mè (vừng):
Lá vừng là lá đơn, mọc cách trên thân, cành.
Hình dạng lá thay đổi tùy giống và ở vị trí khác nhau trên thân cũng có hình dạng khác nhau. Thông thường, lá ở vị trí thấp và gần gốc cành thường rộng bản và chia thùy. Cuống lá dài 1-5 cm. Phiến lá thường có lông và có chất nhầy. <xem thêm>
Rễ cây mè (vừng):
Rễ vừng là rễ cọc, rễ chính ăn sâu. Đồng thời hệ rễ bên của vừng cũng rất phát triển về bề ngang. Rễ vừng phân bố chủ yếu ở lớp đất 0-25 cm. Do có rễ cái ăn sâu nên vừng có khả năng chịu hạn rất tốt. Chiều sâu của rễ cái phụ thuộc nhiều vào độ ẩm đất. Ở đất khô, rễ có thể ăn sâu tới 1 m. Độ ẩm cao, rễ không ăn sâu được và vừng có thể bị chết nếu úng một thời gian ngắn do rễ bị thối. <xem thêm>
Hoa và quả cây mè (vừng):
Hoa vừng thuộc hình chuông. Cuống hoa ngắn. Tràng hoa gồm 5 cánh hợp thành hình chuông.
Đài hoa xanh, 5 cánh nông. Ống hoa dài 3-4 cm. Hoa mọc ở nách lá thành chum. Mỗi chum có 4-8 hoa. Nhị đực 5, nhưng có 1 bất dục. Bầu nhụy nằm trên đáy hoa, có 2 ngăn với nhiều vách giả.
Quả vừng là quả nang, chứa nhiều hạt. Mỗi chùm hoa, có thể mang được 4-5 quả.
Số lượng noãn của một quả thay đổi tùy giống, thường 4-6-8 noãn. Một số ít giống có thể có tới 10-12 noãn/quả.
Chất lượng quả cũng khác nhau tùy thuộc vào vị trí đóng quả. Thường quả ở vị trí thấm có hạt lớn hơn ở những vị trí cao.
Vỏ quả thường có lông và đó cũng là đặc điểm phân biệt giống. <xem thêm>
Hạt cây mè (vừng):
Hạt vừng là hạt song tử diệp. Cấu tạo hạt có nội nhủ.
Hạt vừng rất nhỏ, trọng lượng 1000 hạt thường biến động khoảng 4-4,5g.
Hạt dính vách quả thành 2 hàng 2 bên vách.
Số hàng hạt là đặc điểm giống cho nên được coi là một chỉ tiêu để phân biệt, đánh giá giống. <xem thêm>
-
Đặt điểm sinh thái
Nhiệt độ
Vì cây có nguồn gốc nhiệt đới. Tổng tích ôn của mè khoảng 2.700oC cho thời gian sinh trưởng 3 – 4 tháng nhiệt đô trung bình thích hợp khoảng 25 – 30oC. Nhiệt độ thích hợp cho hạt nảy mầm, sinh trưởng, các bộ phận dinh dưỡng và sự hình thành hoa khoảng 25 – 27oC. Nhiệt độ thích hợp cho sự nở hoa và sự phát triển quả vào khoảng 28 – 32oC. Nếu nhiệt độ dưới 20oC kéo dài thời gian nảy mầm. Nhiệt độ dưới 18oC sẽ gây khó khăn cho sự phát triển và nếu nhiệt độ dưới 10oC cây ngừng phát triển và chết.
Nhiệt độ cao trên 40oC vào thời gian ra hoa sẽ cản trở sự thụ phấn, thụ tinh, tăng tỷ lệ hoa rụng và do đó làm giảm số hoa. <xem thêm>
Ánh Sáng
Mè là cây ngày ngắn. Trong điều kiện thời gian chiếu sáng dưới 10 giờ/ngày sẽ rút ngắn thời gian sinh trưởng dinh dưỡng của mè. Mè sẽ ra hoa sớm hơn 15 – 20 ngày trong điều kiện tự nhiên (12giờ/ngày).
Cường độ ánh sáng, số giờ nắng số giờ nắng trong ngày ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất của mè. Trong thời gian sinh trưởng, nhất là sau khi trổ hoa, mè cần khoảng 200 – 300 giờ nắng/tháng cho tới khi trái chín.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy: Cường độ ánh sáng trong thời gian kết quả đến khi chín 28.000 lux thích hợp nhất cho quá trình hình thành dầu. Hàm lượng dầu trong hạt giảm 8% nếu cường độ ánh sáng giảm xuống 7.000 lux. <xem thêm>
Nước
Là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng suất mè. Mè tương đối chịu hạn nhưng cho năng suất thấp, khi đất có ẩm độ dưới 70%. Mè ít cần nước mưa, mè cho năng suất cao ở lượng mưa 500 – 650mm. Trong điều kiện có tưới tổng lượng nước cần lên tới 900 – 1000mm.
Mè yêu cầu lượng nước phân bố đều trong vụ: Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng 34%; thời kỳ ra hoa kết quả 45%; và thời kỳ chín là 21%. Độ ẩm đất thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của mè khoảng 70 – 80%.
Tuy nhiên mè có khả năng chịu hạn khá. Các tài liệu nghiên cứu cũng như trong thực tiễn sản xuất cho thấy mè có thể cho năng suất trong điều kiện lượng mưa 200 – 300mm phân bố đều trong vụ.
Mưa lúc thu hoạch sẽ làm phẩm chất mè giảm do nhiễm bệnh. Mè rất dễ mẫn cảm với nước, nếu mưa liên tục sẽ làm cây đổ ngã và chết. Trong lúc gieo hạt, mưa nhiều hạt sẽ không nảy mầm. <xem thêm>
Các giống mè hiện nay
Nhóm mè vàng
Mè vàng An Giang: trổ hoa 30 ngày sau khi trồng phân cành ít (2-3 cành trên cây), thân màu xanh, chiều cao khoảng 80cm, thời gian sinh trưởng ngắn, khoảng 85 ngày. Năng suất bình quân 1,2 tấn/ha, giống này có sáu hoa, trái có tám khía, trồng phổ biến ở vùng Châu Phú (An Giang).
Mè vàng Miền Đông: trổ hoa 30 ngày sau khi trồng, phân cành trung bình (4 cành/cây), thân màu xanh đậm, chiều cao thấp (70 cm), thời gian sinh trưởng ngắn (80 ngày), năng suất khá cao (1,5 tấn/ha). Giống trồng phổ biến ở Đồng Nai, Sông Bé trên vùng đất cao, trái có bốn đến tám khía.
Mè vàng Cồn Khương: Trổ hoa ngày thứ 35 sau khi trồng, phân cành 4-6 cành/cây), chiều cao 90 cm, thời gian sinh trưởng 75 ngày, năng suất 1,4 tấn/ha. Trồng phổ biến ở Cồn Khương (Cần Thơ), trái có bốn đến sáu khía. <xem thêm>
Nhóm mè đen
Mè đen Trà Ôn: trổ hoa ngày thứ 35 sau khi gieo, phân cành nhiều (4-6 cành/cây), chiều cao 90 cm, thời gian sinh trưởng 95 ngày, năng suất khá cao (1,4 tấn/ha). Trồng phổ biến ở Trà Ôn (Vĩnh Long), trái có từ 4 đến 6 khía.
Mè đen Campuchia: nhập từ Ấn Độ, phân cành rất nhiều, có cả cành cấp hai mang trái, chiều cao từ 90 – 100cm, thời gian sinh trưởng 100 ngày, năng suất cao nhất trong các giống (1,6 tấn/ha), tuy nhiên hạt có nhiều màu sắc khác nhau (có cả đỏ, trắng, nâu), rất khó khi chọn hạt để xuất khẩu. <xem thêm>
Kỹ thuật trồng và chăm sóc
- Làm đất:
Đất trồng mè phải có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước tốt, không bị úng. Cày sâu 15 – 20cm, bừa kỹ nhiều lượt và sạch cỏ dại.
Những khu đất trồng mè khó thoát nước nên lên luống cao 15 – 20cm, rộng 1,2 – 1,5m (kích thước luống tùy vào địa hình đất đai, có thể làm rộng hơn), rãnh rộng 20 – 30cm để tiện cho việc chăm sóc, tưới nước và thóat nước khi mưa. Cây mè không chịu được ngập úng, kể cả ngập úng cục bộ khi có mưa lớn. <xem thêm>
- Thời vụ gieo trồng:
Mè có thể gieo trồng quanh năm để tranh thủ luân canh và tăng vụ nhưng phải bảo đảm tránh úng vào mùa mưa và đủ nước tưới vào mùa khô. Chú ý thời gian thu hoạch không trúng vào thời điểm mưa nhiều và kéo dài (mưa dằm) để thuận lợi cho việc phơi cây, đập lấy hạt, bảo quản.
Vụ Hè thu trồng trên đất cao, thoát nước tốt, tránh úng khi gặp mưa nhiều. Gieo vào tháng 4 – 5 dương lịch thu hoạch vào tháng 6 – 7 dương lịch.
Vụ Đông Xuân gieo từ tháng 12 – 1 dương lịch, thu họach tháng 2 – 3 dương lịch, vụ nà cho năng suất cao nhất trong năm, ít đổ ngã, ít sâu bệnh, thuận lợi cho thu họach và phơi hạt dễ dàng, hạt có màu sáng đẹp, ít bị nấm mốc. <xem thêm>
- Kỹ thuật gieo trồng và xử lý hạt giống:
Lượng giống gieo cho 1 ha: 4 – 6kg
Phương pháp gieo mè:
Gieo đều: Muốn gieo đều ta phải trộn hạt giống với đất bột hoặc cát khô để gieo, nên gieo làm hai lần, lần đi và lần lại thì mới đều. Gieo xong bừa lấp hạt sâu từ 3 – 4cm.
Trước lúc gieo ta nên xử lý giống bằng nước ấm 53oC ngâm hạt 15 phút xong đem để ráo nước trộn với tro hoặc đất cát để gieo. Cũng có thể xử lý bằng dung dịch CuSO4 với nồng độ 0,5% ngâm hạt 30 phút xong vớt ra rửa sạch đem để ráo trộn cát, đất bột để gieo.
Gieo hàng hoặc gieo vãi tùy thuộc vào tập quán của từng địa phương để có phương pháp gieo phù hợp. <xem thêm>
- Phân bón:
Lượng phân bón cho 1 ha:
2 – 3 tấn phân chuồng hoặc 1 tấn phân vi sinh và 200 – 300 kg vôi
140 – 200 kg Ure + 275 – 375 kg Super lân + 80 – 120 kg KCl.
Nếu dùng NPK (20-20-15) 400 – 500kg tương đương (80kg N, 80 kg P2O5, 60 kg K2O).
Bón lót: Toàn bộ phân chuồng, vôi và super Lân + 1/3 Ure + 1/3 KCl (hay bón lót 150 – 200 kg phân NPK).
Bón thúc: Lượng phân vô cơ còn lại chia làm 2 lần bón vào thời điểm 15 và 25 ngày sau gieo (cũng có thể bón 1 lần vào 20 ngày sau gieo), kết hợp xới xáo, làm cỏ, vun gốc. <xem thêm>
- Tưới nước và tiêu nước:
Mè không chịu được ngập úng, nên tưới bằng vòi hoa sen để cây không đổ ngã hoặc có thể tưới theo rãnh trồng, tránh để đọng nước quá lâu. Nếu mưa lớn gây ngập úng thì nhanh chóng khơi rãnh thoát nước.
Trồng mè vụ Đông xuân cần tưới nước đều đặn và tuyệt đối không để thiếu nước khi cây đang ra hoa, sẽ làm giảm năng suất. <xem thêm>
- Phòng trừ cỏ dại:
Lần 1: Khi cây có 3 – 4 lá thật tiến hành làm cỏ kết hợp bón phân thúc. Đây là lần làm cỏ quyết định. Mè rất sợ cỏ át, đồng thời trồng dặm cây tránh sự cạnh tranh ánh sáng lẫn nhau.
Lần 2: Khi cây có 6 – 7 lá tiến hành làm cỏ lần 2 và cũng bón thúc lần 2, tỉa cây ổn định về mật độ. Kết hợp làm cỏ, xới xáo, có thể phun thêm phân qua lá để giúp cây khỏe.
Trong quá trình làm cỏ bón phân ta tỉa dặm đảm bảo khi thu họach mật độ lý tưởng khỏang 50 – 70 cây/m2. Dùng công cụ làm cỏ (xe đẩy cỏ), nên khống chế sạch cỏ trong giai đoạn đầu, từ khi mọc đến ra hoa và khép tán kín. <xem thêm>
- Thu họach:
Khi cây đã có 3/4 số lá vàng ta có thể thu họach được. Nếu thu hoạch trong mùa mưa thì cần chuẩn bị bạt phủ để tránh ướt cho mè khi phơi.
Dùng liềm cắt và bó thành từng bó có đường kính từ 10 – 15cm, rồi dựng đứng các bó thân mè trên các nền có trải bạt ngoài nắng vào ban ngày và đậy lại vào ban đêm để tránh sương và mưa gây mốc hạt. Sau 3 – 5 ngày, đậy lấp hạt, sàng sẩy sạch và phơi thêm 2 – 3 nắng cho thật khô rồi cất trữ, bảo quản. Không nên để cây thành đống sau thu họach, khi gặp trời mưa, quả sẽ thối đen và hạt dễ bị lép.<xem thêm>
Tình hình sâu bệnh hại và biện pháp phòng trừ
Sâu
. Sâu ăn trái: đục vào trái làm cho trái bị hư, sau đó các loại nấm khác tấn công làm hư hạt.
Sâu ăn tạp: ăn phần mô diệp lục trên lá.
Bọ xít xanh: chích hút trên lá.
Cào cào: xuất hiện rãi rác ăn lá
Có thể phòng trị bằng các loại thuốc thông thường như: DDVP, Thiodan . . .
Bệnh
Hầu hết các loại bệnh xảy ra trên lá và trên thân.
Bệnh héo tươi: do nấm Fusarium oxysporium f. sesami gây ra, nấm này thường làm chết cây con. Do đó phải xử lý hạt trước khi gieo bằng CuSO4 hoặc Copper-zin, nồng độ 2%, nếu trị bệnh dùng Copper-B để trị.
Đốm lá: do vi khuẩn Pseudomonas sesami tấn công, làm cho lá có những đốm trắng viền vàng, sau đó bị thủng, lá bị rụng có thể dùng Copper-B để trị.
Đốm phấn: do nấm Oidium sp gây nên, bệnh lan truyền rất nhanh, phòng trị bằng Afugan 30 EC.
Bệnh khảm: đây là bệnh quan trọng khi trồng mè, do rầy xanh truyền các virus gây ra xoắn lá. Bệnh khó trị, do đó phải diệt tác nhân là rầy.<xem thêm>
Tài liệu tham khảo
Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM – Trung Tâm Nghiên Cứu & Chuyển Giao Khoa Học Công Nghệ, Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mè. Truy cập ngày 16/05/2025, từ https://rttc.hcmuaf.edu.vn/rttc-8156-1/vn/-cay-me.html
Khuyến Nông Việt Nam (2019), Mè – cây trồng phù hợp trên đất cát trong mùa nắng nóng. Truy cập ngày 16/05/2025, từ https://khuyennongvn.gov.vn/chuong-trinh-nganh-nong-nghiep/tai-co-cau-nganh-nong-nghiep/me–cay-trong-phu-hop-tren-dat-cat-trong-mua-nang-nong-19265.html
Đồng Tháp online (2016), Ưu tiên phát triển mè. Truy cập ngày 16/05/2025, từ https://baodongthap.vn/kinh-te/uu-tien-phat-trien-cay-me-56906.aspx
Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bình Thuận – Trung tâm Khuyến nông (2016), Quy trình kỹ thuật canh tác cây mè. Truy cập ngày 16/05/2025, từ https://khuyennong.binhthuan.gov.vn/News/quytrinhkt/caytrong/2016/06/989.aspx
Comments are closed, but trackbacks and pingbacks are open.